Sự chênh lệch tiếng việt đối với học sinh vùng đồng bằng và dân tộc thiểu số là bài toán khó giải quyết hiện nay.
Tăng cường công tác quản lý giáo dục dân tộc, nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo, quan tâm chỉ đạo việc xây dựng kế hoạch dạy học, đổi mới phương pháp dạy học tiếng Việt cho trẻ dân tộc thiểu số vừa đảm bảo chương trình, vừa phù hợp với điều kiện năng lực của HS, đặc biệt là HS lớp 1.
Quan tâm bổ sung các điều kiện đảm bảo dạy học tiếng Việt cho học sinh tiểu học dân tộc thiểu số, xây dựng môi trường giao tiếp tiếng Việt cho học sinh tiểu học dân tộc thiểu số tăng cường sự phối hợp với chính quyền địa phương, phụ huynh học sinh trong việc huy động học sinh ra lớp và xây dựng cơ sở vật chất cho các trường; tham mưu xây dựng chính sách các địa phương bên cạnh các chế độ chính sách đặc thù riêng của tỉnh dành cho người dạy, người học ở vùng kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn, vùng đông đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống; thực hiện có hiệu quả việc tổ chức tốt các hoạt động trải nghiệm, các hội thi, giao lưu.
Đặc biệt chúng tôi duy trì và tổ chức có hiệu quả các kỳ “Giao lưu tiếng Việt cho HS vùng DTTS” và xác định đây là một trong những giải pháp quan trọng nhằm tăng cường tiếng Việt cho HS.
Sau mỗi kỳ giao lưu đều có sự thay đổi, đa dạng hình thức tổ chức, tránh sự nhàm chán cho giáo viên, học sinh khi tham gia. Địa điểm tổ chức giao lưu cấp huyện, cấp tỉnh được đặt luân phiên tại các địa phương để tạo điều kiện cho các cán bộ GV, HS tham gia các đoàn giao lưu, tham quan thực tế các địa danh, nét văn hóa đặc trưng của địa phương trên địa bàn tỉnh. Sau đó cùng tổ chức triển khai thực hiện và tổng kết, đánh giá kết quả giao lưu của từng đơn vị tham gia.
Trên cơ sở tổ chức giao lưu cấp tỉnh, các Phòng GD&ĐT Quảng Ninh chủ động xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện từ cấp trường (cụm trường), cấp huyện. Yêu cầu các địa phương phổ biến đến toàn thể giáo viên, phụ huynh HS hiểu rõ tinh thần của giao lưu là cơ hội để HS được nâng cao kỹ năng sử dụng tiếng Việt và bồi dưỡng tình yêu tiếng Việt cho HS, tạo tâm lý thoài mái, tự tin cho HS khi tham gia giao lưu.
Hình thức tổ chức nhẹ nhàng, hiệu quả, phù hợp với điều kiện và tình hình thực tế của các đơn vị để mỗi kỳ giao lưu tiếng Việt thật sự trở thành ngày hội dành cho HS vùng DTTS.
Đồng thời cần tăng cường công tác xã hội hóa trong việc tổ chức hoạt động giao lưu. Thực hiện tốt công tác truyền thông qua cha mẹ HS tạo sự đồng thuận, không gây áp lực cho GV, HS tham dự.
Việc thực hiện đồng bộ các giải pháp đã triển khai, các trường tiểu học có HS DTTS học tập trên địa bàn tỉnh đã có những kết quá đáng khích lệ, thu hút được HS ra lớp và tỷ lệ duy trì sĩ số đảm bảo; giảm thiểu số lượng HS không hoàn thành chương trình lớp học, cấp học.
Hàng năm tỷ lệ trẻ DTTS trong độ tuổi tiểu học vào học tiểu học đạt 99,9%; 100% số HS DTTS hoàn thành chương trình tiểu học. Chất lượng giáo dục môn Tiếng Việt: Số học sinh hoàn thành trở lên đạt tỉ lệ 99,2%; trong đó HS DTTS đạt 96,9%.
Đặc biệt, qua mỗi kỳ giao lưu đã tạo cơ hội cho HS được học hỏi, rèn luyện các kỹ năng nghe, nói, đọc, viết; biết vận dụng tiếng Việt trong giao tiếp, viết văn hay chữ đẹp góp phần gìn giữ đa dạng, phong phú, trong sáng của tiếng Việt.